GIỐNG LÚA P9

GIỐNG LÚA P9

1. Nguồn gốc, tác giả:

P9 là giống lúa do Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển lúa thuần, Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm lai tạo và chọn lọc từ tổ hợp lai BT7 x Tẻ trắng Điện Biên, vụ mùa 2004. Quá trình chọn lọc cá thể được tiến hành qua nhiều vụ bằng phương pháp gia hệ.

Giống lúa P9 đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận chính thức tại các tỉnh phía Bắc theo Quyết định số 212/QĐ-TT-CLT ngày 31/5/2016.
2. Đặc điểm chính của giống:

  • Thời gian sinh trưởng: vụ mùa 105 – 110 ngày; vụ xuân 133 -137 ngày.
  • Đặc điểm: giống P9 có kiểu hình thâm canh. Chiều cao cây 100 – 105 cm, b��ng to, dài, số hạt/bông đạt 160 – 170 hạt, dạng hạt dài, vỏ trấu màu nâu vàng, tỉ lệ hạt chắc cao (90%).

– Khả năng chống chịu: ít nhiễm sâu bệnh hại.

– Năng suất trong vụ xuân đạt 65 – 70 tạ/ha, vụ mùa đạt 60 – 65 tạ/ha; nếu canh tác tốt có thể đạt trên 70 tạ/ha.

– Giống P9 có thể được coi là giống có chất lượng khá. Hàm lượng amylose 20%, không bạc bụng, cơm mềm, chất lượng nấu nướng rất tốt.

3. Kỹ thuật gieo cấy/canh tác/sản xuất:

Khi canh tác giống lúa P9 có thể áp dụng các phương thức làm mạ dược, mạ sân hoặc gieo thẳng.

* Kỹ thuật ngâm ủ giống

Trước khi ngâm ủ hạt giống cần được phơi lại trong nắng nhẹ, chú ý không phơi trên nền đất.

– Trong vụ xuân hạt giống cần được ngâm trong nước từ 40 – 48 giờ (với hạt giống mới), 30 – 36 giờ (hạt giống cũ), ngâm hạt trong nước ấm (3 sôi 2 lạnh), thường xuyên kiểm tra 5 – 6 giờ 1 lần, nếu thấy nước chua phải đãi cho bớt chua sau đó lại được ngâm trong nước mới. Khi hạt giống đã no nước thì tiếp tục đem đãi sạch và ủ ấm. Khi mộng dài 2 – 3mm thì đem gieo. Trong điều kiện thời tiết rét kéo dài cần chú ý giữ ấm cho mạ bằng phương pháp che phủ nilong cho mạ

– Trong vụ mùa, nếu sử dụng hạt giống đã để cách vụ thì ngâm trong nước sạch 24 – 25 giờ, nếu là hạt giống mới thì ngâm ủ trong thời gian 30 – 36 giờ. Chú ý: trong thời gian tháng 5 – 6 thường nhiệt độ cao nên dễ gây chua, do vậy thường xuyên đãi mạ cho bớt chua (1 – 2 lần/ngày). Đảm bảo độ thoáng trong quá trình ủ để tránh trường hợp yếm khí làm cho bộ rễ sẽ mọc dài, mầm lúa thì còi cọc. Khi mầm lúa đạt độ dài 2 – 3mm thì có thể tiến hành gieo mạ.

* Thời vụ và mật độ gieo cấy:

Vụ Xuân: Các tỉnh miền Bắc nên gieo Xuân muộn từ 10/1 đến 25/1, cấy sau lập xuân, đối với mạ dược cần cấy sớm tránh mạ già, tuổi mạ dược 5,0 – 6,0 lá, mạ sân cấy khi 15 – 18 ngày tuổi. Mật độ cấy 45 – 55 khóm/m2, cấy 2 – 3 dảnh/khóm

Vụ Mùa: gieo trà mùa sớm hoặc mùa trung, gieo từ 1/6 đến 10/6, cấy mạ non 4,0 – 4,5 lá. Mật độ cấy 40 – 50 khóm/m2.

Gieo thẳng với lượng hạt giống khoảng 50 – 55 kg/ha. Chú ý phun thuốc diệt cỏ sau gieo 3 – 5 ngày. Tỉa dặm khi cây lúa có 3 – 4 lá thật.

* Kỹ thuật bón phân và chăm sóc:

– Lượng phân bón: Khi canh tác giống P9 trên đất có độ phì trung bình và không có phân chuồng để bón thì nên bón với mức phân bón là 110 – 120 kg N + 90 – 100 kg P2O5 + 80 – 90 kg K2O, tùy từng mùa vụ và chân đất.

Nếu có điều kiện sử dụng phân chuồng thì nên sử dụng phân chuồng hoai mục và bón với liều lượng 8 – 10 tấn phân chuồng  + 100 – 110 kg N + 80 – 90 kg P2O5 + 70 – 80 kg K2O là phù hợp và có ý nghĩa rất lớn đối với việc đảm bảo sự bền vững trong canh tác lúa và cải tạo nguồn dinh dưỡng trong đất.

– Cách bón: Nên bón nặng đầu nhẹ cuối, bón thúc sớm cho lúa đẻ nhánh sớm, tập trung và đảm bảo được số dảnh hữu hiệu/m2.

+ Bón lót: bón trước hoặc cùng cấy với lúa, bón toàn bộ phân chuồng + 100% P2O5 + 40% N + 50% K2O

+ Bón thúc lần 1: 40% N khi cây lúa bắt đầu đẻ nhánh (Vụ mùa bón sau cấy 10 –  ngày, vụ xuân sau cấy 20 – 25 ngày), kết hợp làm cỏ sục bùn.

+ Bón thúc lần 2: bón đón đòng trước khi trỗ 25 – 30 ngày, bón hết lượng phân còn lại.

Ngoài ra, cũng có thể sử dụng phân bón NPK tổng hợp để bón với liều lượng cho 1 sào Bắc bộ là: Phân chuồng 200 kg + 18 – 20kg NPK (16:16:8) + 3 – 4 kg kali.

+ Bón lót: toàn bộ phân chuồng + 40% lượng phân tổng hợp NPK.

+ Bón thúc lần 1: 60% lượng phân tổng hợp NPK

+ Bón thúc lần 2: bón hết lượng phân kali còn lại (3 – 4 kg kali/ sào).

Trước khi cấy 4 – 5 ngày nên bón phân cho mạ với lượng 2 kg urê/ sào mạ. Chú ý trong vụ xuân, không bón thêm ure khi nhiệt độ thấp, chỉ bón khi có dự báo thời tiết sẽ ấm lên.

– Chú ý: Bón phân chăm sóc sớm cho lúa phát triển tốt ngay ở giai đoạn đẻ nhánh. Sau khi lúa kết thúc đẻ nhánh nên tháo cạn ruộng trong 5 – 7 ngày để lúa dừng đẻ nhánh vô hiệu (đảm bảo 5 – 6 dảnh chính/khóm là được). Không dùng phân đạm đơn lẻ hoặc phân tổng hợp có hàm lượng đạm cao để bón rước thêm ở giai đoạn cuối và phải bón đủ lượng phân Kali cho lúa ở thời kỳ bắt đầu làm đòng.

Cần thường xuyên thăm đồng làm cỏ, quản lý nước tốt, phát hiện sâu bệnh hại và phòng trừ kịp thời./.

4. Đối tượng và phạm vi áp dụng:

Giống lúa P9 có thể cấy được cả hai vụ/năm trên các chân ruộng vàn và vàn hơi thấp, những vùng bị chua mặn nhẹ và hơi bấp bênh về nước tưới. Giống P9 có thể tham gia tốt chương trình sản xuất lúa chất lượng cao cho các tỉnh miền Bắc và miền Trung, trong cơ cấu 3 vụ/ năm (lúa xuân + lúa mùa + 1 – 2 vụ màu đông).

5. Điển hình đã áp dụng thành công:

Các tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung bộ

6. Địa chỉ liên hệ giống:

Bộ môn Chọn tạo giống lúa cho vùng khó khăn, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển lúa thuần, Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm, xã Liên Hồng, Gia Lộc, Hải Dương.